Có lẽ trên vùng đất được gọi là Hà Nội ngày nay, là nơi đầu tiên ở nước ta phổ biến tục ăn trầu (vì theo tục truyền, câu chuyện về trầu cau ra đời vào thời Hùng Vương). Theo các tài liệu cổ do sứ thần nhà Nguyên (khoảng thế kỷ XIII – XIV) ghi nhận thì vào thời Trần, người dân nơi đây đã biết dùng trầu từ độ tuổi 13 cùng với những địa danh được xem chốn riêng cho những người sành ăn.
“Mua vôi chợ Quán, chợ cầu
Mua cau Nam Phố, mua trầu chợ Dinh.”
Vào khoảng thế kỷ XVI, Alexandre De Rhodes - nhà truyền giáo người Pháp đã nói về việc ăn trầu của người Thăng Long trong khoảng thế kỷ XII như sau: "Họ có tục đem theo một vài túi con đầy trầu cau đeo ở thắt lưng, họ để mở trong khi qua lại phố phường để mời bạn bè. Khi gặp, họ bắt đầu chào hỏi nhau, rồi mỗi người lấy ở trong túi của bạn một miếng trầu để ăn". Gắn liều với tục ăn trầu - cau là một chuỗi của những hành vi ứng xử văn hóa khá tinh tế từ cách ăn mặc, phong thái, cử chỉ chào hỏi,… tất cả là một nghệ thuật.
Têm trầu là một nghệ thuật vì qua cách têm người ta sẽ đánh giá được sự tinh tế, khéo léo của người têm. Một trong những tiêu chí của thời xưa khi chọn con dâu, ngoài việc bếp núc, nội trợ thì têm trầu là một trong những việc bắt buộc để đón xem tính nết, nếp ăn ở, vun vén gia đình… Đứng đầu trong các cách têm là loại trầu cánh phượng, dáng vẻ miếng trầu vừa gọn gàng, xinh xắn và đã đi vào câu chuyện cổ tích Tấm Cám như một dấu ấn văn hóa. Nghe có vẻ nhưng đơn giản nhưng để có một buổi trầu ngon cũng cần lắm công phu. Nào là quả, nào là cơi đồng, ống vôi, cối và cây nghiền, cau, trầu và vôi…
Không dừng lại ở những câu chuyện truyền miệng, trầu cau còn được dùng khá phổ biến trong ca dao, tục ngữ, trong câu hát đối đáp của những đôi nam nữ và cũng có khi trở thành cái hồn của những kiệt tác thơ. Thi sĩ Hồ Xuân Hương từng viết:
“Quả cau nho nhỏ, miếng trầu ôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi” (Mời trầu)
Không những là chuyện tình duyên, mà còn là cách cư xử ở đời, gói gém trọn vẹn trong miếng trầu nho nhỏ:
“Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu”
Thật vậy, khi nói đến trầu cau là nói đến chuyện lễ - nghĩa, là khởi đầu cho những cuộc gặp gỡ, của những mối tình chớm nở như ánh nắng mai. Nhắc đến chuyện trầu - cau người ta không thể quên nhắc đến câu chuyện của hai anh em Tân – Lang và người vợ hiền hòa. Mối tình gắn bó keo sơn của họ được biểu trưng bằng ba vật phẩm linh thiêng, tảng đá vôi (người em), cây cau (người anh) và dây trầu không (vợ của người anh). Câu chuyện này đã được lưu truyền trong dân gian không biết tự bao giờ, nhưng sức sống của nó vẫn còn mãi đến tận ngày nay và cả mai sau nữa.